Trong tư tưởng chỉ đạo cũng như trong thực tiễn hành động, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vai trò và quyền lực của dân, luôn tin vào khả năng và sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.335)
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nước lấy dân làm gốc”, bởi vì “lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng”; “có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó
khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 10, tr.453)
Nhận thức rõ vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: “Nước lấy dân làm gốc… Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr. 501, 502)

Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh

(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 6, tr.232).
Người tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.280).
Nhấn mạnh vai trò của nhân dân đối với Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 9, tr 382).
Quan điểm “dân là chủ và dân làm chủ” được Người nhiều lần nhắc đến trong các bài viết, bài
nói chuyện. Người nhấn mạnh: Trong chế độ dân chủ, nhân dân mới là chủ sở hữu mọi quyền lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc đến vai trò “người chủ đất nước” của mọi người dân trong các ngành, các giới: công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, các dân tộc, cả các cháu thiếu niên nhi đồng... Khi “dân là chủ” thì tất cả các cán bộ, đảng viên đều là “đầy tớ của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ vai trò của mình: “Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân… Làm đày tớ nhân dân chứ không phải làm
“quan” nhân dân. Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.292).
Với các cán bộ cách mạng nói chung và những Cán bộ viết báo nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh quan điểm: Được phục vụ nhân dân là một vinh dự rất vẻ vang. Người khẳng định: “Cán bộ Đảng cũng như cán bộ chính quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đày tớ của nhân dân, phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 11, tr. 113).
“Nước lấy dân làm gốc” nên Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên phải gần dân, trọng dân, học dân, thật thà trước dân, thương yêu dân. Đảng muốn lãnh đạo phải gần dân, lắng nghe và thấu hiểu lòng dân để đề ra chủ trương, chính sách phù hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ cách chữa bệnh quan liêu mệnh lệnh là “Theo đúng đường lối nhân dân” và quán triệt sáu điều:
“Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết;
Liên hệ chặt chẽ với nhân dân;
Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ;
Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình;
Sẵn sàng học hỏi nhân dân;
Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr 177).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,lợi ích của nhân dân là mục tiêu của cách mạng, là lý tưởng của Đảng. “Nhiệm vụ của Đảng ta là một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 9, tr.31).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Tháng 10/1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chủ tịch đã viết: “Tin vào dân
chúng... Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr. 337-338).
Trong giai đoạn cả nước tập trung sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng việc huy động nhân dân xây dựng, hoàn thiện bộ máy và đội ngũ cán bộ của Đảng và Chính quyền. Người viết: "... Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên".
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr. 547).
Người chủ trương: “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết” để “Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.338).
Người yêu cầu tổ chức đảng, các đảng viên phải tự đến với dân và chú ý lắng nghe, tiếp thu những ý kiến của nhân dân, trên cơ sở đó, tiếp thu để trước tiên tự chỉnh đốn mình và sau đó góp sức chỉnh đốn, xây dựng Đảng; mọi cán bộ, đảng viên “phải liên lạc mật
thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trịquốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.278).
Người yêu cầu tổ chức đảng, các đảng viên phải tự đến với dân và chú ý lắng nghe, tiếp thu những ý kiến của nhân dân, trên cơ sở đó, tiếp thu để trước tiên tự chỉnh đốn mình và sau đó góp sức chỉnh đốn, xây dựng Đảng; mọi cán bộ, đảng viên “phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì
nhất định thất bại”.
Khi sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì trở thành sức mạnh vô địch. Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức từ năm 1947 đến nay vẫn giữ nguyên tính thời sự:
“Chúng ta phải kiên quyết bỏ sạch lối quan liêu, lối chật hẹp, lối mệnh lệnh. Chúng ta phải kiên quyết thực hành theo nguyên tắc sau đây:
1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng.
2. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.337-338).
Gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh vì lợi ích của nhân dân là mục đích hoạt động, là lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng. Đảng trở thành đại biểu cho lợi ích của giai cấp và của nhân dân. Đây là điểm xuất phát và cũng là nội dung, là mục tiêu phấn đấu của Đảng.Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên cũng chính là điểm nhấn quan trọng, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về “Dân làm gốc”.

CẦN TẨY SẠCH BỆNH QUAN LIÊU MỆNH LỆNH (*)

Ai cũng biết bệnh quan liêu mệnh lệnh là nguy hiểm. Nhưng trong công tác thực tế, như trong việc tạm vay thóc chiêm vừa rồi, nhiều cán bộ ta còn mắc bệnh ấy. Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ.
Bệnh quan liêu mệnh lệnh tự đâu mà ra?
Xa nhân dân: Do đó, không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân.
Khinh nhân dân: Cho là “dân ngu khu đen”, bảo sao làm vậy, không hiểu được chính trị, lý luận cao xa như mình.
Sợ nhân dân: Khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa.
Không tin cậy nhân dân: Họ quên rằng không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong, có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy, làm cũng được.
Không hiểu biết nhân dân: Họ quên rằng nhân dân cần trông
thấy lợi ích thiết thực (lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cuộc). Đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông.
Không yêu thương nhân dân: Do đó họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân, không thiết thực giúp đỡ nhân dân. Thí dụ: Họ yêu cầu nhân dân đóng góp, nhưng không biết giúp đỡ nhân dân tăng gia sản xuất, cải thiện sinh hoạt, để bồi dưỡng sức của, sức người của nhân dân.
Có nơi, bệnh quan liêu mệnh lệnh trầm trọng đến nỗi cán bộ lừa phỉnh dân, dọa nạt dân!
Bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ
đưa đến một kết quả là: hỏng việc. Vì vậy, chúng ta phải mau mau chữa bệnh nguy hiểm ấy.
Cách chữa bệnh ấy gồm có một nguyên tắc là: Theo đúng đường lối nhân dân và 6 điều là:
Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết;
Liên hệ chặt chẽ với nhân dân;
Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ;
Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoanh nghênh nhân dân phê bình mình;
Sẵn sàng học hỏi nhân dân;
Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo.
Cán bộ Đảng và chính quyền ta đều sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân. Mong rằng anh chị em đều cố gắng thi đua dùng đơn thuốc này, (thuốc đắng dã tật), chữa hết bệnh quan liêu mệnh lệnh, để trở nên người cán bộ tốt, và làm cho công việc thu thuế nông nghiệp sắp tới đạt được kết quả mỹ mãn.
C.B.
Báo Nhân Dân, số 23, ngày 2/9/1951
(*) Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr.176-177.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và vận dụng thành công tư tưởng “Dân là gốc” với mục tiêu nhân dân thực sự là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng cộng sản Việt Nam xác định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Những thắng lợi vẻ vang của Đảng đều là chiến thắng của khát vọng thống nhất, hòa bình của dân tộc và cũng chính là chiến thắng của sức mạnh đoàn kết của nhân dân, của lòng dân, của sức dân.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân nhằm phát huy vai trò và tập hợp quần chúng nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần quan trọng để công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.
Trong Văn kiện Đại hội VI, Đảng khẳng định bài học kinh nghiệm quan trọng đầu tiên từ thực tiễn cách mạng là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “Dân là gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân. Quần chúng là người làm nên lịch sử… Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”.
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tập 47, tr.362, 363).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) nhấn mạnh: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước".
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.5).
Văn kiện Đại hội IX khẳng định một trong những bài học có giá trị lớn trong 15 năm đổi mới (1986-2000) là “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo... Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia”.
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.81, 82).
Qua các kỳ Đại hội, quan điểm “Dân là gốc” luôn được Đảng ta cụ thể hóa thành phương hướng, nhiệm vụ, cơ chế để để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân..
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.84, 85).
Đây là những quan điểm được tổng kết, có tính khái quát cao về dân chủ, khẳng định bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là “dân chủ” và “nhân dân làm chủ”. Các văn bản quan trọng khác của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa quan điểm này. Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới, trong đó có những vấn đề liên quan đến dân chủ, quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống các văn bản pháp luật về dân chủ trong hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước cũng được thể chế hóa và cụ thể hóa. Quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước được quan tâm, gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội.
Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung nội dung, phương châm để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đó là, bổ sung “dân giám sát, dân thụ hưởng” thành phương châm: “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội làm nòng cốt” để nhân dân làm chủ; khẳng định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là nền tảng chính trị, pháp lý để nhân dân thực hiện quyền làm chủ và “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.173).
Quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Văn kiện Đại hội XIII xác định: Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, “phát huy vai trò, sự tham gia của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các vùng, địa phương; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.191, 192).
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Bác Hồ và Đảng ta luôn luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của Nhân dân, ý nghĩa cực kỳ quan trọng của công tác dân vận, thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố mối liên hệ chặt chẽ với Nhân dân. Chính nhờ thế mà mặc dù với số lượng không đông, Đảng ta vẫn có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, dù đó là kẻ thù nguy hiểm và hung bạo nhất. Làm tốt công tác dân vận và liên hệ mật thiết với Nhân dân là truyền thống tốt đẹp và là nguồn sức mạnh vô địch của Đảng ta.
…Hiện nay, vấn đề có ý nghĩa quyết định để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân là Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của Nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; củng cố và xây dựng tổ chức đảng thật trong sạch, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng thật sự xứng đáng là người lãnh đạo và người đày tớ trung thành của Nhân dân.
(Nguyễn Phú Trọng: Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 333, 335).
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta. Hội nghị Trung ương lần thứ 12 khóa IX có Kết luận số 39-KL/TW ngày 30/8/2005 về “Triển khai chỉ đạo điểm cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đúc rút kinh nghiệm để Bộ Chính trị ra chỉ thị tiến hành cuộc vận động lớn trong toàn Đảng về chủ đề này ngay sau Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng”. Đầu năm 2006, Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương tổ chức làm điểm Cuộc vận động tại các tỉnh:
Hải Dương, Khánh Hòa, Bình Dương và các đảng ủy ở Trung ương là Đảng ủy Ban Dân vận Trung ương, Đảng ủy Khối Kinh tế Trung ương và Đảng bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trên cơ sở kết quả việc làm điểm, ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Mục đích cuộc vận động là “Làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu
dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh... nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định là “một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã yêu cầu đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Ngày 14/5/2011, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Chỉ thị 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Kết quả thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã khẳng định xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh không
chỉ về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mà còn nhấn mạnh xây dựng Đảng về đạo đức. Đây cũng là lần đầu tiên “phong cách Hồ Chí Minh” được nhấn mạnh chính thức trong Văn kiện Đại hội Đảng. Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Điểm mới chính là gắn trọng tâm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW với công tác xây dựng Đảng, thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TW khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
Nghị quyết Đại hội XIII xác định nhiệm vụ “đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị”. Ngày 18/5/2021, Bộ Chính trị khóa XIII có Kết luận số 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Kết luận 01-KL/TW nhấn mạnh yêu cầu: Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi
đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân. Xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn nữa giữa Đảng với dân, thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”, “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu
đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn.
Từ Chỉ thị 06-CT/TW, Chỉ thị 03-CT/TW đến Chỉ thị 05-CT/TW và Kết luận 01-KL/TW, việc học và làm theo Bác đã được các cấp ủy, chính quyền, đơn vị, tổ chức cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, chương trình cụ thể, phát huy được sức lan tỏa sâu rộng trên mọi mặt của đời sống xã hội, ngày càng đi vào thực chất, dần trở thành việc làm thường xuyên, nền nếp, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Theo kết quả điều tra dư luận xã hội tháng 3/2021 của Ban Tuyên giáo Trung ương, 71% số người được hỏi đánh giá việc thực hiện học tập và làm
theo Bác đã khôi phục, củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Học và làm theo Bác, nhiều phong trào thi đua thiết thực, hiệu quả góp phần phát triển kinh tế-xã hội, chăm lo đời sống nhân dân như “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”; “Nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới”; “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; “Xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc”; “Thi đua quyết thắng”; “Vì an ninh Tổ quốc”...
Từ những phong trào này, có nhiều tập thể, cá nhân xuất sắc, các tấm gương điển hình tiên tiến, tiêu biểu; nhiều sáng kiến, kinh nghiệm của tập thể, cá nhân đã được áp dụng trong thực tiễn lao động, sản xuất, khởi dậy tình cảm, động lực, tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và mong muốn cống hiến, phụng sự đất nước của mọi tầng lớp xã hội.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá cuả Đảng ta và nhân dân ta, soi sáng sự nghiệp cách mạng, dẫn dắt mỗi bước đi lên và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc làm rất cần thiết, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thường xuyên, không thể thiếu đối với toàn Đảng, toàn dân ta, truớc hết là các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện, cống hiến, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng