"Nếu chỉ để làm giàu, tôi đã không về nước"

TIỂU PHƯƠNG

Thứ Hai, 14/07/2014 19:07
Tiến sĩ chuyên ngành quản lý, chính sách giáo dục, Trưởng phòng Khoa học và quan hệ quốc tế (Trường đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội) Nguyễn Thị Ngọc Bích đã chia sẻ về nghề, về cuộc sống và sự lựa chọn giữa sự nghiệp chung và lợi ích riêng rằng: "Nếu chỉ để làm giàu, tôi đã không về nước"
Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Bích (người đầu tiên bên phải) và các đồng nghiệp thảo luận về giải pháp phát triển chương trình thạc sĩ quản lý lãnh đạo giáo dục của Việt Nam theo chuẩn quốc tế.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Bích (người đầu tiên bên phải) và các đồng nghiệp thảo luận về giải pháp phát triển chương trình thạc sĩ quản lý lãnh đạo giáo dục của Việt Nam theo chuẩn quốc tế.

Nơi quán nhỏ trên con phố mới mở Xã Đàn (Hà Nội), bỏ qua những phút xã giao ban đầu, cuộc trò chuyện nhanh chóng trở nên cởi mở và thân tình. Nữ trí thức có vẻ ngoài trẻ hơn nhiều so tuổi 54, vẫn giữ được nét xuân sắc một thời.

Giữa làm giàu và cống hiến, chị đã chọn vế thứ hai để quyết định trở về. Năm 1991, chị Nguyễn Thị Ngọc Bích sang Mỹ học chương trình thạc sĩ theo chủ trương trao đổi giảng viên giữa Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội) với Đại học Georgetown (Mỹ).

Thương con còn nhỏ, chị đưa hai bé theo cùng. Chồng chị là quân nhân, cho nên không thể sang với ba mẹ con. Mười năm học tập và làm việc tại Mỹ, chị vừa nỗ lực hoàn thành hai chương trình thạc sĩ quan hệ quốc tế và tiến sĩ quản lý, chính sách giáo dục, vừa làm thêm để có đủ chi phí nuôi hai con nhỏ.

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam nhỏ nhắn với nhiều ý tưởng thông minh trên giảng đường, tần tảo chăm con sau mỗi ngày làm việc và nhất là gương mặt luôn nở nụ cười, đã để lại ấn tượng tốt đối với thầy dạy và bạn học. Chị nhớ lại kỷ niệm khi trao bằng tiến sĩ cho chị, vị giáo sư - người thầy của chị tại Đại học Oregon đã nói với mọi người rằng, ông đã được nghe về Bà Trưng, Bà Triệu trong lịch sử Việt Nam, nay được chứng kiến sự nỗ lực của học trò - một cô gái nhỏ nhắn đến từ Hà Nội, ông rất cảm phục và tự hào.

Nỗ lực ấy có cả bản lĩnh để chiến thắng cám dỗ vật chất, giữ vững tinh thần yêu nước, hướng về Tổ quốc. Chị kể, hồi đó, một số người gốc Việt đặt vấn đề cộng tác với điều kiện chị phải viết bài nói xấu Việt Nam. Thể hiện rõ quan điểm tận trung với Tổ quốc, tại nhiều diễn đàn, chị thẳng thắn phản đối những điều phi lý, bịa đặt nhằm chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Minh chứng bằng chính những ưu việt mà Đảng, Nhà nước và Trường đại học Tổng hợp khi đó đã dành cho trí thức, và chị là một trong số đó để họ có cơ hội bước ra thế giới. Bằng thành công trên đất Mỹ, chị đã chứng minh cho họ thấy trí tuệ và nghị lực Việt Nam, nhất là phẩm giá con người Việt Nam chân chính. Vừa làm nghiên cứu sinh, vừa hoàn thiện vốn tiếng Anh, chị được Học viện ngôn ngữ Đông Nam Á Mùa hè Mỹ mời giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam.

Dù có nhiều cơ hội ở lại làm việc trong môi trường giáo dục tiên tiến, với những lời đề nghị hấp dẫn, chị vẫn lựa chọn trở về. Bởi chị muốn mang kiến thức đã học hỏi và tích lũy được trong mười năm ở Mỹ về quản lý, chính sách giáo dục; phương pháp dạy học và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giáo dục, đóng góp cho sự nghiệp đổi mới nền giáo dục nước nhà. Tháng 6/2000, sau hai tuần nhận bằng tiến sĩ, chị đưa hai con về nước.

- "Chị có lường trước những khó khăn?", Tôi hỏi chị.

Thật chân tình, chị bày tỏ: "Quả là khó biết trước mọi điều. Về nước, công việc của tôi chưa ổn định. Hai con khó hòa nhập khi theo học ở hệ thống trường công lập. Từ những học sinh xuất sắc ở nước ngoài, bỗng nhiên chúng trở thành "cá biệt" trong lớp, khiến tôi hoang mang. Bàn đi, tính lại, quyết định xin cho con học trường quốc tế. Được khoảng hai năm, thấy cha mẹ vất vả lo tiền ăn học, các con bày tỏ nguyện vọng sẽ không học tiếp đại học và muốn học lái máy bay theo nghiệp của bố. Bản thân vẫn muốn con cái tự lập và tự lựa chọn nghề nghiệp cho nên tôi đồng ý. Tôi xin trở lại Đại học Quốc gia, khi ấy cũng vừa lúc Trường đại học Giáo dục thành lập."

Với mức lương khoảng năm triệu đồng/tháng quả là "vấn đề" cho cuộc sống, thêm vấn đề của cơ chế thi tuyển giảng viên chính cho nên mức thu nhập của chị "tụt hậu" so các đồng nghiệp, nhưng chị thật sự vui vì được làm đúng nghề mình đã học, được người học chia sẻ những điều bổ ích qua bài giảng hay góp ý của chị cho các nghiên cứu khoa học của họ. "Còn nếu chọn làm giàu, kiếm tiền cho bản thân, có lẽ tôi đã không về nước".

Tôi đặt vấn đề:

- Có vẻ như các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước nhằm thu hút đội ngũ trí thức phục vụ đất nước thì nhiều, nhưng thực tế còn không ít vướng mắc?

Chị thẳng thắn cho rằng, chính sách tốt cần vượt ra khỏi những khẩu hiệu chung chung. Để có chính sách tốt và khả thi cần phải điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề đang diễn ra trong thực tiễn.

Nhiều năm qua, chúng ta đã để "chảy máu xám" cả trong và ngoài nước. Nhiều người ra nước ngoài học tập và không trở về vì sự hấp dẫn từ môi trường học thuật bên ngoài, và còn cả nỗi lo lắng không được chào đón và đãi ngộ phù hợp.

Có những người vì muốn đóng góp cho đất nước nhưng khi trở về gặp phải nhiều thủ tục rườm rà, cho nên họ lại quay ra làm cho các tổ chức nước ngoài ngay trong nước. Nếu không sử dụng và phát triển hiệu quả đội ngũ trí thức thì đất nước nào cũng khó phát triển bền vững. Tại các trường đại học danh tiếng của một số nước có nền giáo dục phát triển ở châu Á như: Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore..., giảng viên đều có bằng tiến sĩ ở Mỹ, Anh, Canada, Australia...

Điều này vừa bảo đảm chất lượng đào tạo vừa tạo danh tiếng cho nhà trường.

Chia sẻ về thực trạng tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đã chỉ ra, trong đó có ngành của mình, chị suy tư: Giáo dục là nơi để hoàn thiện và phát triển nhân cách, cho nên những người làm trong môi trường này cần đặc biệt giữ gìn nhân cách. Tuy nhiên, không ít người đã tìm cách gây khó khăn cho người học, để người học phải lo lắng, "chạy vạy". Xin học, xin việc, kể cả việc giảng dạy, đôi khi được chọn vì những yếu tố ngoài năng lực.

"Tôi luôn đối xử công bằng, bình đẳng với mọi đối tượng và thật sự nghiêm túc, trách nhiệm trong hướng dẫn luận văn, nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Sửa chữa với mục đích khích lệ và cho họ thấy sự nghiêm túc của học thuật, nếu có khắt khe là vì muốn họ học được cả kiến thức, kinh nghiệm và phương pháp, tuyệt đối tránh việc gây khó khăn hay tạo tâm lý lo âu cho người học.

Tôi luôn từ chối việc các học viên hỏi địa chỉ nhà trước khi bảo vệ. Mọi trao đổi đều được trả lời tận tình qua điện thoại, email. Tôi quan niệm, tư duy minh bạch sẽ có hành xử công bằng".

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với tinh thần làm việc không ngừng nghỉ, chị lại cùng những tấm lòng nhiệt huyết tiếp tục đồng hành với sự nghiệp giáo dục Việt Nam, hướng thế hệ trẻ tới môi trường học thuật trong sáng và nhiều khích lệ, tạo nền tảng phát triển vững chắc cho tương lai.

Tin liên quan

Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh, phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh, phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là do bản lĩnh chính trị thiếu kiên định, thiếu vững vàng. Do đó, để cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiệu quả, cần tăng cường giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân, ngọn cờ chỉ đường chiến thắng của quân và dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân, ngọn cờ chỉ đường chiến thắng của quân và dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước

Tư tưởng chiến tranh nhân dân là một bộ phận trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam

Ngày 15/5/2007, tại Hà Nội, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam phối hợp Viện Khoa học Xã hội nhân văn Quân sự (Bộ Quốc phòng) tổ chức Hội thảo khoa học: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam", nhân kỷ niệm 50 năm bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại lớp chỉnh huấn cán bộ trung, cao cấp, Bộ Quốc phòng về xây dựng Quân đội từng bước tiến lên chính quy và hiện đại (5/1957 - 5/2007) và kỷ niệm 117 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.